Ủy Thác Thi Hành Án Hình Sự

Ủy Thác Thi Hành Án Hình Sự

VỀ LUẬT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI SỰ ỦY THÁC VÀ CÔNG NHẬN SỰ ỦY THÁC

Vai trò của luật sư trong giai đoạn thi hành án dân sự

Luật sư chuyên về thi hành án dân sự là người am hiểu về luật pháp, là người giúp cho công dân về mặt pháp lý trong những vụ việc liên quan đến pháp luật, nhất là ở tòa án.

Thực tế cho thấy rằng, việc tham gia tố tụng của luật sư chuyên về thi hành án dân sự không những đảm bảo tốt hơn quyền bào chữa của những bị can, bị cáo và các đương sự khác; mà nó còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những sai sót và làm rõ sự thật khách quan. Từ đó có thể xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật; bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Khi luật sư là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị hại, nguyên đơn dân sự thì họ sẽ giải thích và mang đến những tư vấn pháp luật, giúp đương sự hiểu rõ nội dung của các quy định pháp luật, quyền và nghĩa vụ, cũng như những trách nhiệm dân sự của mình.

Không chỉ dừng lại tại đó, luật sư chuyên về thi hành án dân sự còn giúp đàm phán, thuyết phục và giúp các bên thương lượng, hòa giải, tự nguyện thực hiện đúng những quyền và nghĩa vụ dân sự của mình. Hạn chế tối đa việc phải nhờ đến sự can thiệp, phân xử của tòa án và thực hiện những biện pháp cưỡng chế của cơ quan thi hành án.

Vai trò của luật sư trong giai đoạn thi hành án dân sự là rất quan trọng

Bên cạnh đó, khi luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người được thi hành án dân sự, họ có thể đưa ra những tư vấn hoặc trực tiếp đi xác minh theo sự ủy quyền về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án dân sự, đề nghị áp dụng những biện pháp như phong tỏa tài sản, kê biên nhằm tránh tình trạng tẩu tán tài sản. Công việc này vô cùng quan trọng đối với việc thi hành án dân sự, giúp giảm thiểu tình trạng quyết định thi hành án dân sự đã có, nhưng người thi hành án dân sự lại không có tài sản để thi hành.

Chính nhờ kiến thức chuyên môn về pháp luật và nghiệp vụ của mình, những luật sư chuyên về thi hành án dân sự sẽ góp phần lớn giúp đảm bảo quá trình thi hành án được diễn ra một cách khách quan nhất và đảm bảo được lợi ích hợp pháp của những đương sự.

Ưu, nhược điểm của ủy thác mua bán hàng hóa:

Trên thực tế, hoạt động ủy thác thể hiện ở rất nhiều ưu điểm như:

Người nhận ủy thác thường hiểu rõ và nắm bắt đầy đủ thông tin thị trường, am hiểu pháp luật và tập quán địa phương, do đó có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán, phòng tránh hoặc giảm thiểu rủi ro cho người khác. Điều này đặc biệt có lợi đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp mới thành lập và hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta. Khi một doanh nghiệp muốn thâm nhập và thị trường nước ngoài, nhất là những thị trường mới mà không am hiểu về pháp luật và tập quán thương mại ở nước đó, đồng thời cũng không có khả năng tự tìm hàng tiêu thụ sản phẩm thì việc sử dụng dịch vụ thương mại qua trung gian, đặc biệt là hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa sẽ có vai trò quan trọng, khắc phục được những hạn chế trên.

Bên cạnh đó, hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa góp phần phát triển nền kinh tế đất nước, tăng thu ngân sách. Trong hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu là lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt. Hoạt động xuất nhập khẩu muốn được đẩy mạnh phải tìm được đầu mối xuất nhập khẩu, tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Dịch vụ ủy thác đã góp phần không nhỏ đối với những doanh nghiệp không đủ điều kiện trực tiếp xuất nhập khẩu, không tìm được đầu mối để xuất nhập khẩu.

Nhờ vào dịch vụ ủy thác trong việc lựa chọn, phân loại đóng gói, người ủy thác có thể giảm bớt chi phí vận tải. Người nhận ủy thác thường có sẵn cơ sở vật chất, khi sử dụng dịch vụ này, người ủy thác đỡ được khoản đầu tư đáng kể so với trường hợp nhà sản xuất, kinh doanh tự mình tổ chức phân phối hàng, tự tìm bạn hàng, ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng.

Và các nhà kinh doanh có thể tổ chức một hệ thống rộng rãi các trung gian tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ do tiết kiệm được chi phí khi sử dụng dịch vụ ủy thác. Người ủy thác có thể mở rộng thêm thị trường, dần dần hình thành mạng lưới buôn bán để chiếm lĩnh thị trường.

Bên cạnh các ưu điểm, thì hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa cũng có những nhược điểm như:

Khi thực hiện hoạt động thương mại được thực hiện thông qua người trung gian, người sử dụng dịch vụ trung gian thương mại sẽ có nguy cơ bị mất mối liên hệ trực tiếp với thị trường và đối tác.

Thứ hai, lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh của người ủy thác bị chia sẻ do họ phải trả một khoản tiền thu lao khi sử dụng dịch vụ ủy thác của người nhận ủy thác.

Và người ủy thác luôn ở thế bị động trong việc tiếp cận thị trường và đối thác, họ phụ thuộc vào người nhận ủy thác. Nếu người nhận ủy thác làm việc kém hiệu quả, không thành công hay gian lận, thiếu trách nhiệm gây thiệt hại, tổn thất, bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh… thì người ủy thác sẽ phải chịu trách nhiệm.

Tại Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như sau:

“1. Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.”

Từ đó có thể thấy quan hệ đại diện phát sinh từ các căn cứ đó chính là:

– Đại diện theo pháp luật thì bao gồm đại diện theo quy định của pháp luật và theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

– Đại diện theo ủy quyền theo sự thỏa thuận của các bên.

Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự thỏa thuận của các bên. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự do xác lập, thực hiện, định đoạt các hành vi không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội để phục vụ cho nhu cầu, sở thích của mình, quyền và lợi ích của người khác. Khi bên ủy quyền và bên được ủy quyền xác lập một quan hệ ủy quyền, tức là đã xác lập sự thỏa thuận giữa các bên (có thể có thù lao hoặc không có thù lao). Theo đó bên được ủy quyền được thay mặt và nhân danh bên ủy quyền thực hiện một số hành vi nhất định trong phạm vi ủy quyền, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến quyền lợi của các bên ủy quyền hoặc của bên thứ ba liên quan. Cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể ủy quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

Như vậy, có thể hiểu ủy quyền là việc một bên (được gọi là bên được ủy quyền) nhân danh một bên khác (được gọi là bên ủy quyền) để xác lập, thực hiện các giao dịch.

Ủy quyền làm phát sinh hai mối quan hệ cùng tồn tại, thứ nhất đó là quan hệ giữa người ủy quyền và người được ủy quyền và thứ hai, đó là quan hệ giữa người ủy quyền người thứ ba.

Người được ủy quyền lập quan hệ với người thứ ba là nhân danh (đại diện) người ủy quyền chứ không phải nhân danh chính họ.

Mục đích người được ủy quyền xác lập quan hệ với người thứ ba là vì lợi ích của người ủy quyền, hiểu theo cách khác đó là quyền (lợi ích và nghĩa vụ trong quan hệ với người thứ ba là quyền và nghĩa vụ của người ủy quyền.

Ủy quyền được xác lập trên cơ sở thỏa thuận. Khác với quan hệ đại diện theo pháp luật là loại đại diện bắt buộc và phải có người cho người được đại diện, thì ủy quyền là hình thức đại diện được hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa hai bên, có sự thống nhất ý chí giữa người ủy quyền và người được ủy quyền.

Quyền và nghĩa vụ của người được ủy quyền tùy thuộc vào nội dung ủy quyền (phạm vi ủy quyền). Người ủy quyền có thể ủy quyền cho người được ủy quyền có toàn quyền thực hiện công việc của mình hoặc chỉ được thực hiện một phần công việc. Người nhận ủy quyền cũng có toàn quyền thực hiện công việc hoặc chỉ là một phần quyền là do phạm vi ủy quyền thỏa thuận, cùng với nó sẽ xác định quyền và nghĩa vụ của người được ủy quyền.