Nước Ối Của Mèo

Nước Ối Của Mèo

Nước ối là chất lỏng màu trong suốt xuất hiện từ ngày thứ 12 sau khi thụ thai. Khi thai nhi còn trong bụng mẹ thì em bé nằm trong túi ối – đó là túi hình thành từ màng ối và màng đệm. Thai nhi lớn lên và phát triển trong túi ối và được bao quanh bởi nước ối.

Ảnh hưởng của nước ối đục đến thai nhi

Như đã phân tích ở trên, những nguy cơ có thể xảy ra đối với thai nhi khi nước ối bị đục bao gồm:

Ngoài việc thăm khám định kỳ và tuân thủ nghiêm ngặt chỉ định của bác sĩ, mẹ bầu có thể cải thiện tình trạng nước ối bị đục bằng cách:

Qua những thông tin mà nhà thuốc Long Châu thu thập được, hy vọng đã giải đáp được thắc mắc của các mẹ về vấn đề nước ối đục. Chúng tôi mong muốn thai phụ có được những kiến ​​thức cần thiết để quá trình mang thai diễn ra an toàn nhất. Nhớ truy cập trang web của nhà thuốc Long Châu hàng ngày để có những thông tin mới nhất về sức khỏe bạn nhé!

Nước ổi đục cảnh báo nguy hiểm khi nào?

Mức độ nguy hiểm khác nhau tùy thuộc vào nguyên nhân gây ra nước ối đục ở phụ nữ mang thai. Nếu các chất gây thai làm đục nước ối thì điều này là hoàn toàn bình thường. Các chất gây thai này là các tế bào bong tróc ra từ các bộ phận của cơ thể thai nhi. Do đó, không gây ra bất kỳ nguy hiểm nào.

Nước ối đục do có lẫn phân su thì thai phụ cần hết sức lưu ý. Phân su thường được thai nhi thải ra ngoài vài ngày trước khi sinh. Tuy nhiên, nếu thai nhi đi phân su quá sớm đồng nghĩa với việc thai nhi đang bị suy thai, thiếu oxy, nếu không được xử trí, nước ối đục có thể dẫn đến những biến chứng khó lường.

Hiện tượng bất thường của nước ối

Nồng độ nước ối thấp hay còn được gọi là tình trạng thiếu ối xảy ra khi chỉ số AFI đo được dưới 5cm (chỉ số bình thường là 5-25cm) và chỉ số MVP nhỏ hơn 2cm.

Tình trạng này thường xảy ra ở những bà mẹ có tiền sử mắc một trong những bệnh lý sau:

Tình trạng thiểu ối có thể xảy ra trong bất kỳ tam cá nguyệt nào, tuy nhiên nếu xảy ra vào khoảng 6 tháng đầu của thai kỳ thì nguy cơ dị tật bẩm sinh hay sinh non cao hơn, nghiêm trọng hơn dẫn đến sảy thai, thai chết lưu.

Còn trong trường hợp người mẹ có dự trữ nước ối thấp trong giai đoạn 3 tháng cuối thai kỳ thì sẽ gặp một vài rủi ro như thai nhi chậm lớn hay ngôi thai bị ngược. Do đó, phần còn lại của thai kỳ sẽ được theo dõi chặt chẽ để đảm bảo sự phát triển bình thường của thai nhi.

Theo đó, các bác sĩ có thể áp dụng một vài xét nghiệm để đưa ra đánh giá chính xác về mức độ ảnh hưởng của tình trạng thiểu ối cũng như có phương án điều trị kịp thời như truyền nước bổ sung dịch ối cho mẹ. Một số xét nghiệm cần thiết bao gồm:

Trong một số trường hợp, các bác sĩ có thể chỉ định người mẹ cần phải sinh sớm, để bảo vệ sức khỏe của cả hai mẹ con. Vì thiểu ối sẽ dễ dẫn đến tình trạng mẹ bị vỡ ốm sớm dù chưa đến ngày chuyển dạ và có nguy cơ gây nhiễm trùng ối, bào thai và tử cung… gây nguy hiểm đến tính mạng.

Thông thường đối với các mẹ bầu bị thiếu ối nhẹ, các bác sĩ có thể khuyên nên uống nước dừa khoảng 2-3 lần mỗi tuần để giúp tăng lượng nước ối cũng như làm sạch nước ối. Bên cạnh đó, bổ sung nước tinh khiết hàng ngày cũng sẽ khắc phục được tình trạng thiếu ối ở mẹ bầu.

Tình trạng đa ối xảy khi người mẹ dư thừa quá nhiều nước ôi và chỉ số AFI đo được hơn 24cm và MVP lớn hơn 8cm. Đa ối thường xảy ra ở những trường hợp mẹ bầu mang song thai hay đa thai. Theo đó, các nguyên nhân gây đa ối ở mẹ bao gồm:

Bên cạnh đó, mẹ bầu có thể gặp các triệu chứng phổ biến khi bị đa ối như đau bụng và khó thở do tử cung mở rộng hay bụng to lên nhanh, các cơn đau tức đột ngột. Ảnh hưởng của đa ối sẽ dẫn đến những biến chứng nguy hiểm cho cả mẹ và bé như sinh non, vỡ ối sớm, nhau bong non, thai chết lưu, dị tật thai nhi, dây rốn quấn cổ hay xuất huyết sau sinh.

Chính vì thế, trong quá trình mang thai, mẹ có thể được chỉ định thực hiện các xét nghiệm tiểu đường thai kỳ hay siêu âm thường xuyên để theo dõi mức độ nước ối trong tử cung. Các trường hợp đa ối nhẹ thì không cần quá lo lắng và có thể sử dụng một vài loại thuốc lợi tiểu an toàn. Trong trường hợp nghiêm trọng hơn, cần phải giảm lượng nước ối thì các bác sĩ có thể tiến hành chọc ối để rút bớt lượng nước ối cần thiết.

Vào những tuần cuối của thai kỳ, mẹ bầu có thể gặp phải tình trạng rò rỉ nước ối. Tuy nhiên, trong một số trong một số trường hợp, mẹ cũng có thể nhầm lẫn đôi chút giữa nước ối và một số loại chất lỏng khác. Bởi vì trong thời điểm này, tử cung đang đè lên bàng quang khiến nước tiểu cũng bị rò rỉ ra ngoài. Bên cạnh đó các mô âm đạo cũng có thể sản xuất thêm chất lỏng để giúp em bé dễ dàng vượt qua hơn. Vì vậy, có thể khó xác định xem chất lỏng bị rò rỉ ra ngoài là nước tiểu, nước ối hay dịch âm đạo.

Vì thế, các mẹ bầu có thể dựa vào đặc tính màu sắc và mùi để xác định chính xác đâu là nước ối, đâu là nước tiểu hay dịch âm đạo.

Nếu chất lỏng không có màu và không có mùi, đó sẽ là nước ối còn nước tiểu sẽ có màu vàng nhạt hoặc đậm và có mùi, trong khi dịch âm đạo có màu trắng và hơi nhầy.

Trong trường hợp, chất lỏng bị rỉ ra có màu xanh lá cây, xanh nâu hoặc mùi hôi, điều này có thể cho thấy vi khuẩn đã xâm nhập được vào tử cung và gây nên tình trạng nhiễm trùng nước ối. Hãy liên hệ với bác sĩ để có ngay những tư vấn và can thiệp kịp thời.

Vỡ ối sớm là tình trạng màng ối vỡ trước tuần thai thứ 37. Tùy thuộc vào việc điều này này xảy ra sớm như thế nào, nó có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho người mẹ và đứa trẻ chưa sinh. Thường cứ 100 ca mang thai sẽ có khoảng 2 ca vỡ ối sớm.

Trong một số trường hợp, vỡ ối sớm cũng là dấu hiệu cho tình trạng chuyển dạ sớm và sinh non ở người mẹ. Theo đó, vỡ ối sớm sẽ được chia làm hai giai đoạn: một là vỡ ốm sớm khi chưa có hiện tượng chuyển dạ hay còn được gọi vỡ ối non; còn một là vỡ ối khi đã chuyển dạ nhưng cổ tử cung chưa mở.

Điều quan trọng nhất khi hiện tượng này xảy ra là người mẹ cần liên hệ ngay với các bác sĩ và tuyệt đối tránh đưa bất cứ thứ gì vào âm đạo, vì điều này có thể dẫn đến việc nhiễm trùng.

Nước ối là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của thai nhi. Việc theo dõi chỉ số nước ối thường xuyên sẽ giúp các mẹ bầu có những điều chỉnh kịp thời để hạn chế tối đa những nguy cơ xấu có thể xảy ra với em bé.

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

TS. BS Huỳnh Thị Thu ThủyPhó Giám đốc - BV Từ Dũ

Thai nhi 3 tháng tuổi.Ảnh chỉ mang tính chất minh họa.

Thai nhi nằm trong tử cung của người mẹ và được bao bọc xung quanh bởi nước ối. Nước ối là một môi trường giàu  chất dinh dưỡng, có khả năng tái tạo và trao đổi, giữ một vai trò quan trọng đối với sự sống còn và phát triển của thai nhi nằm trong bụng mẹ. Nước ối xuất hiện từ ngày thứ 12 sau thụ thai. Nước ối được tạo thành từ ba nguồn gốc: thai  nhi, màng ối và máu mẹ.

Sự tái hấp thu nước ối: Được thực hiện chủ yếu qua hệ tiêu hóa thai nhi. Từ tuần thứ 20 thai kỳ, thai nhi bắt đầu nuốt nước ối. Ngòai ra, nước ối còn được tái hấp thu qua da của thai nhi, dây rốn và màng ối.

Như vậy, ngay từ đầu thai kỳ, nước ối đã có chức năng nuôi dưỡng phôi thai. Sau khi lá nhau được thành lập, nước ối giữ phần biến dưỡng nước và các chất khác bảo đảm cho sự sống còn và phát triển của thai. Thai từ 34 tuần trở lên hấp thu từ 300-500ml nước ối mỗi ngày. Lượng nước ối này vào ruột góp phần tạo phân su, vào máu góp phần cân bằng dịch trong cơ thể thai nhi và được lọc một phần tạo thành nước tiểu cho bé.

Nước ối còn có chức năng bảo vệ, che chở cho thai tránh những va chạm, sang chấn, đặc biệt là bảo đảm môi trường vô trùng cho bé trong bọc ối.

Về mặt cơ học, nưốc ối tạo môi trường cho thai phát triển hài hòa và bình chỉnh về ngôi thai trong ống sinh dục của mẹ trong những tháng cuối thai kỳ. Trong lúc chuyển dạ sanh, nước ối tiếp tục bảo vệ thai nhi khỏi những sang chấn của cơn co tử cung và nhiễm khuẩn. Nước ối giúp thành lập đầu ối nong cổ tử cung của mẹ giúp cho sự xóa mở cổ tử cung được thuận lợi hơn.

Sau khi vỡ ối, tính nhờn của nước ối bôi trơn đường sinh dục của mẹ giúp thai nhi dễ được sinh ra hơn.

Như vậy, nước ối là một dịch luân lưu, từ tam cá nguyệt thứ hai, nước ối có nguồn gốc phần lớn do thai nhi bài tiết từ đường tiết niệu và nước ối được hấp thu lại do thai nuốt vào hệ tiêu hóa. Thể tích nước ối thay đổi từ  50ml khi thai nhi được 4-8 tuần tuổi đến 1000ml khi thai được 38 tuần. Sau đó, thể tích nước ối có khuynh hướng giảm dần và còn khỏang 600-800ml vào tuần thứ  40 của thai kỳ hay lúc chuyển dạ sanh.

Về màu sắc: lúc đầu thai kỳ nước ối có màu trắng trong. Thai nhi càng lớn dần thì màu sắc nuớc ối sẽ trắng đục dần do có chứa nhiều chất gây. Thai đủ trưởng thành (từ tuần lễ thứ 38), nước ối sẽ có màu trắng đục gần giống như nước vo gạo.

Qua khảo sát bệnh lý của nước ối, chúng ta có thể đánh giá được tình trạng sức khỏe và một số bệnh lý của thai nhi

Nước ối có thể bất thường về thể tích và bất thường về màu sắc.

Đa ối: Khi thể tích nước ối trên 2000ml: thường gặp trong đa thai và một số bất thường về hệ thần kinh trung ương của thai nhi như não úng thủy, thai vô sọ, thoát vị não màng não, cột sống chẻ đôi…. Đa ối cũng có thể do nguyên nhân bệnh lý của màng ối, của bánh nhau dây rốn, phù nhau thai, thai nhi to, do bệnh lý của mẹ như mẹ bị tiểu đường, .. hơặc vô căn

Ảnh hưởng của đa ối lên sự phát triển và sức khỏe thai nhi: đa ối nếu do nguyên nhân dị tật hay dị dạng thì tiên lượng rất xấu. Đa ối sẽ làm cho bé khá di động trong tử cung nên dễ có dây rốn quấn cổ, ngôi bất thường. Đa ối làm bụng mẹ  căng to, mẹ khó thở, dễ cò cơn co tử cung và chuyển dạ sinh non làm tăng tỷ lệ tử vong chui sinh của bé. Khi chuyển dạ sanh, tình trạng đa ối dễ là nguyên nhân của chuyển dạ kéo dài làm bé dễ suy thai, mẹ bị đờ tử cung gây băng huyết sau sanh. Đồng thời, đa ối sẻ dễ bị vỡ ối đột ngột và tai biến của vỡ ối đột ngột là: nhau bong non, sa dây rốn, ngôi bất  thừờng và thuyên tắc ối. Những điều này làm đe dọa tín mạng của cả 2 mẹ con.

Thiểu ối hay ít  ối, vô ối: Khi thể tích nước ối dưới 200ml: Thường gặp trong bất thường hệ tiết niệu và hệ tiêu hóa thai nhi như hẹp thực quản, không có dạ dày, van niệu đạo sau ở bé nam, bất sản thận…. Thiểu ối còn gặp trong tình trạng mẹ suy dinh dưỡng, thai suy dinh dưỡng, thai quá ngày sanh, vỡ ối non, vỡ ối sớm….

Ảnh hưởng của thiểu ối lên sự phát triển của thai nhi: Thiểu ối nếu xuất hiện sớm vào tam cá nguyệt thứ 2 có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của thai nhi. Nếu không phải do dị tật bẩm sinh thì bé cũng có những hậu quả lớn vì tình trạng thiểu ối kéo dài: trật khớp háng bẩm sinh, xơ cứng các khớp, tay chân khoèo do không cử động tốt được trong buồng tử  cung ít  nước ối, thiểu sản phổi gây suy hô hấp. Vào tam cá nguyệt thứ ba, nếu thiểu ối thường do bé suy dinh dưỡng và hậu quả cũng lớn: tay chân khoèo, xơ cứng khớp, thiểu sản phổi và điều quan trọng là chèn ép dây rốn, bé dễ bị suy thai và không bình chỉnh được ngôi thai có thể có những ngôi bất thường gây đẻ khó. Nếu vỡ ối gây thiểu ối khi chưa chuyển dạ hoặc khi mới bắt đầu đau bụng sanh sẽ làm nhiễm trùng ối, từ đó làm nhiễm trùng bào thai, nhiễm trùng tử cung… cả mẹ và  bé đều nguy hiểm, đều bị ảnh hưởng đến sức khỏe và tín mạng.

Chỉ số ối bình thường từ: 6-12cm: Bất  thường: Đa ối khi chỉ số ối: >= 20 cmThiểu  ối : chỉ số ối : <= 5cmVô ối: chỏ số ối:< 3cm

Ngoài ra, người ta có thể dùng phương pháp tìm đo khoang ối lớn nhất trong buồng ối qua siêu âm để đánh giá thể tích nước ối: Nếu khoang ối lớn nhất <= 3cm có thể được xem là thiếu ối.

Tuy nhiên, việc siêu âm để đo chỉ số nước ối phải được đánh giá ít nhất 2 lần liên tục  cách nhau từ 2-6 giờ để xác định  tình trạng thiểu ối hay thừa nước ối. Và thể tích nước ối có thể thay đổi rất nhanh sau 12 giờ cũng như màu sắc nước ối có thể thay đổi tích tắc trong vòng 30phút đến 2 giờ.

Màu sắc nước ối được nhìn thấy qua soi ối với những trường hợp cổ tử cung mở lớn hơn 1cm hoặc chọc hút bước ối qua thành bụng. Khi bấm ối hoặc vỡ ối tự nhiên thì có thể nhìn màu sắc nước ối một cách chính xác và rõ ràng.

Tóm lại: mặc dù là nước ối, nhưng đối với thai kỳ, nước ối đóng vai trò quan trọng ngang bằng với lá nhau, dây rốn, tử cung trong vai trò nuôi dưỡng và bảo vệ thai nhi. Dựa vào khảo sát thể tích, tỷ trọng và màu sắc nước ối người ta có thể dự báo cũng như tiên đoán  được sức khỏe và tình trạng phát triển của bé đang còn nằm trong bụng mẹ.

Nước ối là chất lỏng màu trong suốt xuất hiện từ ngày thứ 12 sau khi thụ thai. Khi thai nhi còn trong bụng mẹ thì em bé nằm trong túi ối – đó là túi hình thành từ màng ối và màng đệm. Thai nhi lớn lên và phát triển trong túi ối và được bao quanh bởi nước ối.

Nước ối chứa các thành phần quan trọng như: chất dinh dưỡng, hormone, kháng thể chống nhiễm trùng. Ở mức cao nhất, nước ối trong bụng của người mẹ đo được khoảng 1 lít. Sau 36 tuần mang thai, nước ối bắt đầu giảm khi cơ thể chuẩn bị cho quá trình chuyển dạ.

Khi bác sĩ thực hiện siêu âm trước khi sinh, họ sẽ ước tính lượng nước ối mà em bé được bao quanh. Chất lỏng này sẽ bắt đầu rò rỉ tại một số thời điểm. Tuy nhiên, nếu lượng chất lỏng rò rỉ ra ngoài quá nhiều thì có thể gây ra hiện tượng vỡ túi ối.

Đôi khi khó có thể biết được liệu chất lỏng đang rò rỉ có phải là nước ối hay không vì thế mà cần dựa vào các triệu chứng cần thiết để có nhận định chính xác hơn.

Nước ối giữ vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển của thai nhi. Theo đó, nước ối chịu trách nhiệm:

- Bảo vệ thai nhi: Chất lỏng đệm giúp cho em bé tránh khỏi áp lực bên ngoài, hoạt động như một chất hấp thụ sốc để bảo vệ và che chở cho em bé.

- Kiểm soát nhiệt độ: Chất lỏng cách nhiệt, giúp giữ ấm và duy trì nhiệt độ ổn định cho thai nhi.

- Kiểm soát nhiễm trùng: Trong nước ối chứa kháng thể giúp bảo vệ em bé, tạo nên môi trường vô khuẩn trong suốt thai kỳ.

- Phát triển hệ thống phổi và tiêu hóa: Kể từ tuần thứ 34, thai nhi sẽ hấp thụ lượng nước ối vào khoảng 300-500ml mỗi ngày bằng cách thở và nuốt nước ối.

- Sự phát triển cơ bắp và xương: Em bé có thể tự do di chuyển trong môi trường nước ối, tạo điều kiện cho cơ bắp và xương phát triển đúng cách.

- Hỗ trợ dây rốn: Nước ối ngăn không cho dây rốn bị nén. Dây rốn có chức năng vận chuyển thức ăn và oxy từ nhau thai đến thai nhi, giúp thai nhi phát triển bình thường.

Ngoài ra, nước ối còn hỗ trợ quá trình sinh nở của người mẹ. Sau khi hiện tượng vỡ ối xảy ra, tính nhờn từ nước ối sẽ giúp bôi trơn đường sinh dục giúp mẹ dễ sinh hơn.